
Bối cảnh sửa đổi luật Sở hữu trí tuệ (“SHTT”) được Quốc hội và Chính phủ nhấn mạnh về nhu cầu chuyển đổi tư duy quản lý sở hữu trí tuệ: từ tập trung vào “xác lập quyền” sang nhìn nhận quyền sở hữu trí tuệ như tài sản có thể định giá, giao dịch, đưa vào báo cáo tài chính, làm tài sản bảo đảm, góp vốn hoặc mua bán phù hợp chiến lược phát triển kinh tế tri thức, chuyển đổi số và các cam kết quốc tế (CPTPP, EVFTA, UKVFTA…)[1]. Luật SHTT đã trải qua 3 lần sửa đổi quan trọng vào các năm 2009, 2019, 2022, và hiện đang có Dự thảo Luật sửa đổi 2025 đang được xem xét, trình Quốc hội thông qua. Việc sửa đổi lần này được xây dựng nhằm khắc phục các bất cập trong thực tiễn thực thi quyền SHTT (như khó khăn trong việc thu thập chứng cứ, tài liệu và dữ liệu để chứng minh hành vi xâm phạm, xác định giá trị thiệt hại, xử lý vi phạm trên môi trường số), đảm bảo tương thích các cam kết quốc tế và tăng cường khả năng thương mại hóa tài sản trí tuệ. Những điều chỉnh này đã được Bộ Khoa học và Công nghệ trình bày và báo cáo giải trình trước Quốc hội trong quá trình hoàn thiện dự thảo[2].
Về những nội dung sửa đổi, bổ sung đáng chú ý, Dự thảo tập trung vào năm nhóm chính sách lớn:
- Hỗ trợ xác lập và thương mại hóa đối tượng quyền sở hữu trí tuệ;
- Đơn giản hóa thủ tục hành chính, thúc đẩy chuyển đổi số trong quản lý sở hữu trí tuệ (rút ngắn thời gian thẩm định sáng chế, cơ chế thẩm định nhanh);
- Nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền (mở rộng hành vi xâm phạm, tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan thực thi);
- Hoàn thiện khung pháp lý về chuyển giao, li-xăng, khai thác và tài chính hóa tài sản trí tuệ (định giá, cho phép ghi nhận trên báo cáo tài chính, thiết lập cơ sở dữ liệu giá giao dịch);
- Bổ sung cơ chế giải quyết tranh chấp, trong đó đáng chú ý là đưa hòa giải thương mại vào như phương thức chính thức được khuyến khích sử dụng trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ[3].
Tổng hợp các thay đổi này đã dẫn đến việc sửa đổi, bổ sung nhiều điều khoản trong Luật gốc. Cụ thể, Dự thảo làm rõ căn cứ xác lập quyền, khẳng định vai trò sáng tạo của con người và quy định vị trí pháp lý đối với sản phẩm do hệ thống AI tạo ra; đồng thời bổ sung quy định về chứng cứ, quy trình giám định chuyên môn và tiêu chí định giá nhằm tạo cơ sở pháp lý cho định giá, mua bán, thế chấp quyền sở hữu trí tuệ và ngăn ngừa lạm dụng. Về thực thi, Dự thảo nâng khung mức bồi thường ấn định khi không xác định được thiệt hại thực tế, mở rộng hành vi xâm phạm quyền trong môi trường số và quy định rõ trách nhiệm của nền tảng, tổ chức trung gian, đồng thời nhấn mạnh thống nhất cơ chế phối hợp giữa cơ quan hành pháp và tư pháp. Về hợp đồng khai thác và thương mại hóa quyền sở hữu trí tuệ, Dự thảo yêu cầu minh bạch điều khoản hạn chế cạnh tranh, phân định trách nhiệm, công bố, báo cáo doanh thu khai thác và bảo đảm bí mật kinh doanh; đồng thời đề xuất thành lập đầu mối/“trung tâm đổi mới sáng tạo” và cơ sở dữ liệu giao dịch để tháo gỡ nút thắt khi doanh nghiệp sử dụng tài sản trí tuệ làm tài sản bảo đảm hoặc huy động vốn.
Một trong những điểm bổ sung mới nổi bật và được quan tâm nhiều nhất là việc bổ sung cơ chế giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại trực tiếp trong khung pháp luật sở hữu trí tuệ – lần đầu tiên được đưa vào như một phương thức chính thức, được khuyến khích sử dụng trong các tranh chấp liên quan quyền sở hữu trí tuệ (Khoản 1 Điều 198 Dự thảo).
Hòa giải thương mại (HGTM) được quy định ở Nghị định 22/NĐ-CP năm 2017, là một phương thức giải quyết tranh chấp ngày càng trở nên thông dụng. Trên thế giới, theo báo cáo của Tổ chức SHTT thế giới (WIPO), hơn 70% số tranh chấp về SHTT được giải quyết bằng hòa giải do những ưu điểm và sự phù hợp của Hòa giải đối với các tranh chấp SHTT liên quan đến tính bảo mật và thời gian giải quyết tranh chấp nhanh chóng và chi phí tiết kiệm hơn so với trọng tài và tòa án[4].
Theo quy định của pháp luật hiện hành, phạm vi áp dụng của hòa giải thương mại trong sở hữu trí tuệ bao gồm tranh chấp giữa chủ thể quyền và cá nhân/tổ chức bị cho là xâm phạm; tranh chấp giữa các đồng chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ; tranh chấp phát sinh từ hợp đồng li-xăng, chuyển giao quyền, hợp đồng cung cấp dịch vụ sáng tạo; và tranh chấp liên quan đến định giá, phân chia lợi ích từ khai thác quyền sở hữu trí tuệ. Hòa giải được thiết kế là phương thức linh hoạt có thể tiến hành trước khi khởi kiện, trong quá trình xử lý hành chính, hoặc ngay cả khi vụ việc đang được tòa án hoặc trọng tài xem xét (khi các bên đồng ý)[5].
Về chủ thể tham gia hòa giải, Nghị định 22 quy định hòa giải viên thương mại chuyên nghiệp (có năng lực chuyên môn về IP/khởi nghiệp/công nghệ) hoặc tổ chức hòa giải thương mại được Bộ Tư pháp công nhận được phép tiến hành hòa giải các tranh chấp sở hữu trí tuệ. Nghị định cho phép hòa giải được thực hiện bởi tổ chức hòa giải độc lập (ví dụ trung tâm hòa giải thương mại) hoặc hòa giải viên do tòa án phân công trong trường hợp hòa giải tại tòa; các bên có thể lựa chọn hòa giải viên chuyên ngành về sở hữu trí tuệ, công nghệ hoặc kinh tế số[6]. Hòa giải có thể tiến hành theo thủ tục thương mại (không công khai, bảo mật thông tin) – một điểm rất phù hợp với các tranh chấp sở hữu trí tuệ liên quan bí mật kinh doanh, dữ liệu, phần mềm.
Về cơ chế công nhận kết quả hòa giải, Dự thảo cho phép biên bản hòa giải thành (hoặc thỏa thuận hòa giải có chữ ký của các bên và hòa giải viên) được đệ trình để yêu cầu Tòa án công nhận; sau khi Tòa án ra quyết định công nhận, thỏa thuận hòa giải có hiệu lực thi hành như một bản án/quyết định và có giá trị cưỡng chế. Quy định này nhằm tăng tính khả thi trong thi hành kết quả hòa giải, giúp người thắng cuộc (bên được thoả thuận) có cơ sở pháp lý để yêu cầu thi hành mà không cần tiến hành toàn bộ thủ tục xét xử dân sự. Đồng thời, Dự thảo ghi rõ hòa giải không loại trừ quyền của các bên yêu cầu cơ quan nhà nước xử lý vi phạm hành chính hoặc khởi kiện dân sự; nhưng Nhà nước khuyến khích ưu tiên sử dụng hòa giải nhằm giảm tải cho hệ thống tòa án và cơ quan hành chính, rút ngắn thời gian giải quyết, và giữ gìn mối quan hệ hợp tác giữa các bên.
Về mối quan hệ giữa hòa giải và các thủ tục khác, Dự thảo làm rõ rằng hòa giải có thể là bước độc lập hoặc song hành: hòa giải không ngăn chặn việc khởi kiện, nhưng khi các bên lựa chọn hòa giải và đạt thỏa thuận thì việc công nhận và cưỡng chế thực hiện sẽ bảo đảm tính hiệu quả; trong nhiều trường hợp, hòa giải còn được khuyến nghị là bước bắt buộc khởi tố nội bộ trước khi đưa vụ việc ra tòa (tùy theo loại tranh chấp và quy định chi tiết sau khi Luật có hiệu lực). Đồng thời, Dự thảo giao nhiệm vụ cho các cơ quan có thẩm quyền (Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp) xây dựng hướng dẫn, danh sách hòa giải viên chuyên ngành về sở hữu trí tuệ và quy trình công nhận để đảm bảo tính nhất quán trong áp dụng.
Về ý nghĩa thực tiễn của việc lồng ghép hòa giải thương mại vào Luật Sở hữu trí tuệ: trước hết, hòa giải tăng tính linh hoạt, thân thiện và bảo mật cho các tranh chấp sở hữu trí tuệ vốn thường chứa yếu tố nghiêm mật (bí mật kinh doanh, thông tin kỹ thuật, thuật toán), giúp các bên giữ mối quan hệ hợp tác sau khi xử lý xong mâu thuẫn – điều mà tòa án hay xử lý hành chính khó đáp ứng[7]. Thứ hai, hòa giải phù hợp với nhu cầu doanh nghiệp FDI, công ty công nghệ và start-up vốn ưu tiên ADR vì tốc độ và bảo mật; Dự thảo vì thế hướng tới tiệm cận thông lệ quốc tế, nơi WIPO, EUIPO và các trung tâm ADR quốc tế đã vận hành các cơ chế hòa giải/ADR chuyên biệt cho tranh chấp sở hữu trí tuệ (WIPO Arbitration & Mediation Center, EUIPO Mediation Centre), giúp đẩy nhanh và chuyên môn hóa việc giải quyết tranh chấp công nghệ và nhãn hiệu xuyên biên giới. Thứ ba, về hiệu quả hệ thống, hòa giải sẽ lọc bớt các vụ việc có khả năng thỏa thuận, giảm áp lực cho tòa án và cơ quan hành chính, đặc biệt trong bối cảnh tranh chấp sở hữu trí tuệ tăng mạnh trên nền tảng thương mại điện tử; đồng thời khi biên bản hòa giải được tòa án công nhận, việc thi hành được thực hiện nhanh hơn, giúp quyền được bảo vệ thực tế hiệu quả hơn. Việc sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ lần này đánh dấu bước chuyển chiến lược từ bảo hộ quyền đơn thuần sang tài sản hóa và thương mại hóa quyền sở hữu trí tuệ – đi kèm với cơ chế pháp lý mới để tăng hiệu quả thực thi, nâng cao tiêu chuẩn xử lý vi phạm trong môi trường số, và đặc biệt là đưa hòa giải thương mại trở thành công cụ chính thức, phù hợp thông lệ quốc tế để giải quyết tranh chấp sở hữu trí tuệ một cách nhanh chóng, bảo mật và mang tính hợp tác. Những thay đổi này hứa hẹn sẽ tác động mạnh đến cách thức doanh nghiệp quản trị tài sản trí tuệ, phương thức thực thi quyền và lựa chọn cơ chế giải quyết tranh chấp trong thời đại số – đồng thời đặt ra yêu cầu cấp thiết là phải xây dựng ngay các văn bản hướng dẫn chi tiết và hệ thống đào tạo, chuẩn hóa năng lực hòa giải viên chuyên ngành sở hữu trí tuệ để đảm bảo hiệu quả khi triển khai thực tế.
Tác giả bài viết:
HGV. Trần Thị Hương – Phó Trưởng Ban đối ngoại VICMC
Ban Thư ký VICMC
Nguyễn Hương Giang – Sinh viên Trường Đại học Luật Hà Nội
[1] Bộ Khoa học và công nghệ, Chuyển đổi số trong quản lý sở hữu trí tuệ: Cơ hội và thách thức, https://mst.gov.vn/chuyen-doi-so-trong-quan-ly-so-huu-tri-tue-co-hoi-va-thach-thuc-197251012063704329.htm
[2] Hiền Trang, Vũ Hiếu, Cao Hoàng (2025, Sửa Luật Sở hữu trí tuệ: Đẩy mạnh chuyển đổi số và cải cách thủ tục hành chính), Cổng thông tin điện tử Quốc hội Việt Nam, https://quochoi.vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?ItemID=97118
[3] Minh Hiền, Đề xuất 5 nhóm chính sách sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ,
Baó Điện tử Chính phủ, https://baochinhphu.vn/de-xuat-5-nhom-chinh-sach-sua-doi-bo-sung-mot-so-dieu-cua-luat-so-huu-tri-tue-102250827150858942.htm, truy cập ngày 25/12/2025
[4] WIPO, ADR Advantages, https://www.wipo.int/amc/en/center/advantages.html, truy cập ngày 25/12/2025
[5] Điều 6 Nghị định 22/2017/NĐ-CP
[6] Bộ Khoa học và Công nghệ, Tờ trình Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ, năm 2025
[7]Lê Hưng Long (2022), Khai thác thương mại tài sản trí tuệ và khả năng GQTC SHTT bằng thương lượng, hoà giải, Trung tâm Hòa giài Thương mại Quốc tế Việt Nam, https://vicmc.vn/khai-thac-thuong-mai-tai-san-tri-tue-va-gqtc-shtt-bang-thuong-luong-hoa-giai/

































