2. So sánh cơ chế giải quyết tranh chấp lựa chọn (ADR) giữa các thành viên CPTPP
a. Khái quát về khả năng sẵn có cơ chế ADR
Như đã phân tích ở trên, tất cả các thành viên CTTPP đều công nhận cơ chế giải quyết tranh chấp lựa chọn (ADR). Tất cả các thành viên CTTPP đều có cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, có pháp luật nội địa điều chỉnh trọng tài và đã là thành viên của Công ước New về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài York năm 1958 (CƯNY 1958). Đây là một điểm thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc các nước thành viên CTTPP, trong đó có doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, CPTPP có quy định về Thủ tục Tố tụng Trong nước và Giải quyết Tranh chấp Thương mại Tư đề cập đến nghĩa vụ của các quốc gia thành viên “cố gắng hết mức có thể để khuyến khích và tạo thuận lợi đối với việc sử dụng trọng tài…”[1]. Điều khoản này yêu cầu nước thành viên tuân thủ Công ước New York 1958 (quy định các thủ tục để công nhận, cho thi hành phán quyết của trọng tài quốc tế) mà không bảo đảm khả năng công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài một cách tuyệt đối.
| STT | Quốc gia | Trọng tài[2] | Hoà giải[3] | Thành viên CƯ NY 1958[4] | Thành viên CƯ Singapore về hoà giải[5] |
| 1 | Brunei | x | x | x | |
| 2 | Canada | x | x | x | |
| 3 | Chile | x | x | ||
| 4 | Malaysia | x | x | x | |
| 5 | Mexico | x | x | x | |
| 6 | New Zealand | x | x | x | |
| 7 | Nhật Bản | x | x | x | |
| 8 | Peru | x | x | x | |
| 9 | Singapore | x | x | x | x |
| 10 | Úc | x | x | x | |
| 11 | Việt Nam | x | x | x |
Đối với phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại, Chile là quốc gia duy nhất trong các thành viên CPTPP chưa ghi nhận dữ liệu về cơ chế này (theo BCMTKD 2020). Hoạt đọng hoà giải ở Chile mới bắt đầu phát triển từ năm 2018 trong lĩnh vực tranh chấp gia đình, môi trường, giáo dục, tiêu dùng, lao động, ngân hàng[6]. Các quốc gia còn lại đều có cơ chế hòa giải song hiện chỉ có Singapore là thành viên chính thức của Công ước Liên Hợp Quốc về thỏa thuận giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải (Công ước Singapore về hòa giải). Một số quốc gia khác trong CPTPP đã tham gia ký kết nhưng chưa phê chuẩn Công ước này bao gồm: Brunei, Chile, Malaysia.[7]
b. Chất lượng về giải quyết tranh chấp (ADR)

Theo dữ liệu của BCMTKD 2020, tất cả các thành viên CPTPP đều đạt điểm số rất tốt trong các tiêu chí về trọng tài (1.5 trên 1.5 điểm). Cũng theo dữ liệu của BCMTKD 2020, một số thành viên CPTPP chưa có pháp luật quốc gia điều chỉnh cơ chế hòa giải, như Brunei[8], Canada[9], New Zealand[10] hoặc chưa ghi nhận hòa giải tự nguyện ở Chile[11] vì Chile mới bắt đầu thúc đẩy cơ chế hoà giải kể từ năm 2018[12]. Mặc dù vậy, Chile lại là một trong số 46 nước tham gia ký kết Công ước Singapore về Hòa giải ngay từ ngày đầu Công ước mở ký (ngày 07 tháng 08 năm 2019). Ba quốc gia thành viên CPTPP khác là Singapore, Brunei và Malaysia cũng đã tham gia ký kết Công ước Singapore về Hòa giải cùng ngày.[13] Điều này thể hiện sự quan tâm của các quốc gia thành viên CPTPP đối với cơ chế hòa giải, bất kể pháp luật trong nước đã được xây dựng hoàn thiện chưa.
Trong những năm gần đây Singapore và Việt Nam là hai thành viên CPTPP duy nhất có những cải cách mới liên quan đến chỉ số giải quyết tranh chấp bằng phương thức lựa chọn. Hy vọng trong thời gian tới, các thành viên CPTPP sẽ tiếp tục hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp, đặc biệt là tiến hành các chương trình cải cách và thúc đẩy phát triển phương thức hòa giải.
So với các thành viên khác của CTTPP, Singapore được coi là một địa điểm giải quyết về trọng tài thương mại hàng đầu thế giới, cùng với London, Hongkong, Paris và Geneva[14]. Không chỉ nổi tiếng về giải quyết tranh chấp trọng tài, một số trung tâm hoà giải thương mại của Singapore cũng có uy tín trong khu vực, như Singapore Mediation Center, Singapore International Mediation Centers. Với mục tiêu trở thành trung tâm giải quyết tranh chấp Châu Á, Singapore luôn tích cực thúc đẩy sự phát triển của cơ chế hòa giải, song song với trọng tài. Theo BCMTKD 2019, Singapore đã cải thiện chỉ số Giải quyết tranh chấp theo phương thức lựa chọn thông qua việc ban hành luật hợp nhất về hòa giải tự nguyện.[15] Với sự phát triển nhanh và mạnh về dịch vụ hoà giải thương mại, Singapore đã được chọn là địa điểm diễn ra lễ ký kết Công ước Liên Hợp Quốc về thỏa thuận giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải (hay còn gọi là Công ước Singapore về hòa giải).
II. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM
Với vị trí thứ 9 trong bảng xếp hạng chỉ số Thực thi Hợp đồng của các thành viên CPTPP cho thấy Việt Nam còn nhiều việc cần làm để cải thiện công tác giải quyết tranh chấp hợp đồng (thực thi hợp đồng). Nhiều quốc gia thành viên CPTPP cũng đã có những hoạt động cải thiện công tác giải quyết tranh chấp hợp đồng. Kinh nghiệm của các quốc gia trong việc cải thiện năng lực bảo đảm thực thi hợp đồng là tập trung vào một số vấn đề sau:
- Tập trung nâng cao chất lượng đào tạo thẩm phán để có thể xét xử các vụ án kinh doanh thương mại được nhanh chóng và bảo đảm chất lượng. Nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo không chỉ tập trung vào đào tạo nguồn mà còn phải nâng cao chất lượng của hoạt động bồi dưỡng kiến thức thường xuyên[16].
- Phát triển đội ngũ thẩm phán chuyên sâu nhiều lĩnh vực để bảo đảm tính hiệu quả và chất lượng của quy trình tố tụng, như Singapore, Malaysia;
- Có thủ tục rút gọn hoặc Toà án chuyên trách giải quyết các vụ việc có giá trị nhỏ như Brunei, Canada, Malaysia, Singapore, Nhật Bản, New Zealand, hay Úc;
- Thúc đẩy áp dụng hệ thống quản lý hồ sơ điện tử, hệ thống điện tử cho phép nộp đơn kiện và thanh toán án phí trực tuyến, như Singapore, Canada, Peru, Chile, Brunei;
- Cuối cùng, tất các thành viên CTTPP trong giai đoạn hiện nay tập trung vào phát triển cơ chế giải quyết tranh chấp lựa chọn (ADR).
Dựa trên những kinh nghiệm từ các thành viên khác của CTTPP và kinh nghiệm tốt tại một số quốc gia khác, một số khuyến nghị dưới đây đối với Việt Nam:
(i) Đẩy mạnh tính chuyên trách và năng lực trong giải quyết các vụ việc thuộc lĩnh vực kinh doanh thương mại
- Toà án các cấp cần có những thẩm phán được tập trung đào tạo, có chuyên môn sâu về các án kinh doanh thương mại, bao gồm các lĩnh vực như tổ chức hoạt động doanh nghiệp, tài chính-tín dụng, hỗ trợ cho hoạt động giải quyết tranh chấp lựa chọn (trọng tài, hoà giải). Một số Toà án tại Hà Nội, Đà Nẵng và Tp. Hồ Chí Minh cần tập trung thêm một số lĩnh vực như hàng không, hàng hải…
- Trong bối cảnh trên, hệ thống Việt Nam về hợp đồng và các hoạt động thương mại ngày một phát triển. Pháp luật hợp đồng và tố tụng dân sự cho phép Toà án được sử dụng các nguồn luật khác nhau để giải quyết tranh chấp hợp đồng, như luật, tập quán, tương tự pháp luật, án lệ và lẽ công bằng. Trong quá trình hội nhập sâu rộng như hiện nay, Việt Nam cũng tham gia ký kết nhiều các điều ước quốc tế về thương mại, đầu tư song phương và đa phương nên đòi hỏi hệ thống Toà án phải có đội ngũ Thẩm phán chuyên trách giải quyết tranh chấp thuộc lĩnh vực kinh doanh, thương mại[17]
- TANDTC cần xây dựng các tiêu chí rõ ràng để TAND các cấp thực hiện khi áp dụng thủ tục rút gọn, đặc biệt là thủ tục cho những vụ việc có giá trị nhỏ. Trong tương lai, hệ thống toà án có thể thành lập các toà án chuyên trách cho những vụ việc tranh chấp có giá trị nhỏ.
(ii) Cải thiện hoạt động của hệ thống hành chính tư pháp
Các thủ tục để người dân giao dịch với Tòa án và cơ quan thi hành án, kể từ khi nộp đơn, giải quyết vụ việc, ra bản án và thi hành án, cần được thực hiện nhanh chóng, thuận tiện cho các bên và đúng các quy định của pháp luật. Các vấn đề sau cần chú trọng:
- Hoàn thiện mô hình và quy trình nhận đơn khởi kiện: TANDTC cần triển khai đồng bộ và thống nhất trên toàn quốc “mô hình hành chính tư pháp một cửa” để đơn giản hoá các thủ tục, giảm bớt chi phí tuân thủ cho người dân khi tiếp cận với hoạt động của Toà án và hạn chế những tác động vào tính độc lập của Thẩm phán.
- Từng bước áp dụng phương thức điện tử cho các thủ tục tại Tòa án và xây dựng mô hình Tòa án điện tử: TANDTC cần đẩy mạnh áp dụng phương thức điện tử trong hoạt động tố tụng như đã quy định tại BLTTDS 2015 và Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC. Giao dịch điện tử giữa Tòa án với người dân, doanh nghiệp cũng sẽ tăng cường tính công khai, minh bạch của hoạt động Tòa án, thúc đẩy Tòa án “gần dân” hơn và công bằng hơn.
- Tăng cường chất lượng quản lý vụ việc, đặc biệt quản lý thời hạn tố tụng: Hệ thống Tòa án cần có các biện pháp mạnh mẽ trong việc tăng cường quản lý thời hạn của từng bước, từng giai đoạn tố tụng của mỗi vụ việc, bao gồm: nâng mức chế tài đối với thẩm phán để án quá hạn, công khai thông tin về các hoạt động giải quyết vụ việc của Tòa án và các bên tham gia tố tụng, phân công án phù hợp với năng lực và kinh nghiệm giải quyết vụ việc của thẩm phán… Việc công khai các hoạt động giải quyết vụ việc của Tòa án sẽ giúp cho việc quản lý các thời hạn tố tụng được tốt hơn và nâng cao tính minh bạch của hoạt động Tòa án mà không ảnh hưởng tới tính bí mật cá nhân, bí mật kinh doanh của các bên đương sự. TANDTC cần thúc đẩy các biện pháp giảm tình trạng hoãn phiên toà để có thể quản lý được tốt thời gian tố tụng.
- Tăng cường minh bạch hoá đối với công tác phân công án: Hệ thống Toà án cần đẩy mạnh việc phân công án theo phương thức ngẫu nhiên và công khai việc phân công án để giúp cho hoạt động của Tòa án trở nên minh bạch hơn, có trách nhiệm giải trình với người dân, doanh nghiệp.
(iii) Cải thiện việc công khai thông tin về các bản án và quy trình quản lý tố tụng
- TAND các cấp cần tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của các phương thức công khai thông tin theo phương thức truyền thống và trực tuyến để người dân, doanh nghiệp có thể hiểu biết rõ hơn quy trình tố tụng và những cải cách, thay đổi của ngành Toà án liên quan đến hoạt động tố tụng, như thông tin về lịch biểu giải quyết vụ án/xét xử, tỷ lệ giải quyết vụ án, tỷ lệ về án tồn đọng, công khai các bản án…
(iv) Cải thiện hoạt động giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án
- Toà án có vai trò to lớn đối với việc thúc đẩy sự phát triển của các phương phức giải quyết tranh chấp lựa chọn (trọng tài và hoà giải), như: (i) tạo điều kiện cho việc công nhận và cho thi hành các phán quyết của trọng tài trong nước và nước ngoài; (ii) công nhận quyết định hoà giải thành của các bên ngoài Tòa án; (iii) mở rộng thời hiệu tố tụng khi các bên giải quyết tranh chấp bằng hoà giải./.
(Hết)
Xem Phần II bài viết tại đây
*Tác giả bài viết:
Chủ tịch Trung tâm hoà giải thương mại quốc tế Việt Nam (VICMC)
Nguyễn Trần Lan Hương
Thành viên Ban Thư ký Chủ tịch Trung tâm hoà giải thương mại quốc tế Việt Nam (VICMC)
[1] Như Phần I bài viết.
[2] Theo dữ liệu của BCMTKD 2020: The World Bank Group, Doing Business 2020, 2019.
[3] Theo dữ liệu của BCMTKD 2020: The World Bank Group, Doing Business 2020, 2019
[4] United Nations Commission on International Trade Law, Status: Convention on the Recognition and Enforcement of Foreign Arbitral Awards (New York, 1958) (the “New York Convention”), https://uncitral.un.org/en/texts/arbitration/conventions/foreign_arbitral_awards/status2truy cập ngày 02/07/2021.
[5] Singapore Convention on Mediation, Status, https://www.singaporeconvention.org/convention/status/ truy cập ngày 30/06/2021.
[6] Weinste International Foundation, The status of mediation in Chile today, https://weinsteininternational.org/chile/chile-bio/ truy cập ngày 30/06/2021.
[7] Singapore Convention on Mediation, Status, https://www.singaporeconvention.org/convention/status/ truy cập ngày 30/06/2021
[8] The World Bank Group, Doing Business 2020: Economy Profile Brunei Darussalam, tr. 55,2019.
[9] The World Bank Group, Doing Business 2020: Economy Profile Canada, tr. 55, 2019.
[10] The World Bank Group, Doing Business 2020: Economy Profile New Zealand, tr. 53, 2019.
[11] The World Bank Group, Doing Business 2020: Economy Profile Chile, tr. 53, 2019.
[12] Weinste International Foundation, The status of mediation in Chile today, https://weinsteininternational.org/chile/chile-bio/ truy cập ngày 30/06/2021.
[13] Singapore Convention on Mediation, Status, https://www.singaporeconvention.org/convention/status/ truy cập ngày 30/06/2021.
[14] Queen Mary University of London and White&Case, 2021 International Arbitration Survey: Adapting arbitration to a changing world, tr. 5, 2021.
[15] The World Bank Group, Doing Business 2019, 2018.
[16] The World Bank Group, Doing Business 2019: Enforcing Contracts and Resolving Insolvency: Training and efficiency in the judicial system, tr. 54, 2018.
[17] Nguyễn Hưng Quang, Nhu cầu của doanh nghiệp đối với hoạt động của Toà án nhằm bảo đảm thực thi hợp đồng tại Việt Nam, tr. 6, USAID – Dự án Dự án Quản trị Nhà nước nhằm Tăng trưởng Toàn diện, 2018; The World Bank Group, Doing Business 2019: Enforcing Contracts and Resolving Insolvency: Training and efficiency in the judicial system, tr. 54, 2018.

































