3.2 Tiếp cận công lý, cơ chế giải quyết tranh chấp trực tuyến và toà án điện tử
Trong bối cảnh xã hội số, các quyền cơ bản của con người, đặc biệt là quyền của nhóm dễ bị tổn thương, là một trong những yếu tố cần được chú trọng khi triển khai, ứng dụng nền tảng, giải pháp kỹ thuật số trong hoạt động tư pháp. Nhìn chung, những quyền cơ bản của con người liên quan đến không gian mạng bao gồm: (i) Quyền trong khai thác và sử dụng mạng Internet và mạng viễn thông; (ii) Quyền được đảm bảo an toàn trên không gian mạng; (iii) Quyền được định danh điện tử để tham gia các giao dịch điện tử; (iv) Quyền riêng tư trên môi trường mạng Internet; (v) Quyền được cấp hồ sơ cá nhân điện tử và địa chỉ hộp thư điện tử (email) miễn phí[1]. Cụ thể:
Thứ nhất, quyền trong khai thác và sử dụng mạng Internet và mạng viễn thông
Tỷ lệ dân số thế giới sử dụng mạng Internet là 59,5%. Trong năm 2020, Việt Nam có khoảng 68,72 triệu người sử dụng mạng Internet, chiếm 70,3% dân số cả nước. Trung bình cứ 100 người Việt Nam thì đến 97 người có điện thoại, 66 người có máy tính xách tay (laptop) hoặc máy tính để bàn[2].
Tuy nhiên, công nghệ số làm phân chia các nhóm thiệt thòi bao gồm các nhóm ở nông thôn, những người không có tiếp cận công nghệ, người cao tuổi, người không biết đọc, biết viết hoặc gặp rào cản ngôn ngữ. Hiện nay, Việt Nam có hơn 7% dân số từ 2 tuổi trở lên, khoảng hơn 6,2 triệu người, là người khuyết tật[3]. Theo một khảo sát do Tổng cục Thống kê thực hiện, tỷ lệ người khuyết tật được tiếp cận với mạng Internet là 6,7%, so với 43% người không khuyết tật. Tỷ lệ người khuyết tật sử dụng điện thoại di động là 38,85%, so với 73,09% người không khuyết tật. Sự chênh lệch này tiếp tục lặp lại khi so sánh về giới tính (giữa nam và nữ) hoặc về khu vực phát triển (giữa nông thôn và thành thị)[4]. Khi người dân tộc thiểu số sống ở khu vực miền núi hoặc vùng đồng bào dân tộc thiểu số thường chưa được kết nối mạng viễn thông và Internet thì họ gặp khó khăn trong việc tham gia vào các hoạt động TMĐT cũng như các cơ chế ODR[5].
Theo quy định pháp luật, người khuyết tật được áp dụng tiêu chuẩn, công nghệ để hỗ trợ họ tiếp cận, sử dụng sản phẩm, dịch vụ thông tin và truyền thông (Thông tư số 26/2020/TT-BTTTT) theo hai hình thức là bắt buộc áp dụng và khuyến nghị áp dụng. Các cơ quan nhà nước và các đơn vị sự nghiệp sử dụng ngân sách nhà nước để thiết kế và xây dựng Trang thông tin điện tử/Cổng thông tin điện tử/Cổng Dịch vụ công; và Tổ chức cung cấp dịch vụ công, dịch vụ hành chính công đều phải áp dụng các tiêu chuẩn này.
Thứ hai, quyền được đảm bảo an toàn trên không gian mạng
Quyền của nhóm dễ bị tổn thương phụ thuộc nhiều vào cơ chế quản lý các nhà cung cấp dịch vụ trực tuyến, ví dụ như thiết lập các tiêu chuẩn kỹ thuật và pháp lý về việc hoạt động, GQTC… Bộ luật Dân sự năm 2015 yêu cầu các bên trong hợp đồng có trách nhiệm bảo mật thông tin và không sử dụng thông tin mật vào mục đích riêng của mình hoặc mục đích trái pháp luật (Điều 387). Vấn đề này cũng được quy định tại Luật Thương mại năm 2005, bên cung ứng dịch vụ có nghĩa vụ giữ bí mật về thông tin mà mình biết được trong quá trình cung ứng dịch vụ nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định (Điều 78). Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 2010 quy định người tiêu dùng phải được bảo vệ thông tin. Trong trường hợp tổ chức, cá nhân muốn thu thập, sử dụng thông tin của người tiêu dùng thì phải thông báo và công khai trước khi thực hiện. Việc sử dụng thông tin của người tiêu dùng phải có sự đồng ý của họ (Điều 6). Nếu không bảo vệ thông tin người tiêu dùng theo quy định pháp luật, tổ chức, cá nhân có thể bị xử lý vi phạm hành chính.
Tuy nhiên, các quy định pháp luật hiện đang có một số bất cập như thiếu quy định về thu thập thông tin người tiêu dùng nằm ngoài không gian mạng; thiếu quy định bảo vệ thông tin liên quan đến sinh trắc học như vân tay, khuôn mặt, giọng nói; thiếu quy định về thu thập thông tin đối với trẻ em; thiếu quy định cho phép người tiêu dùng có quyền để yêu cầu bên thu thập, sử dụng thông tin đó xóa, gỡ bỏ thông tin cá nhân của mình; và chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với chủ thể có hành vi sai trái trong việc thu thập và sử dụng thông tin của người tiêu dùng[6].
Thứ ba, quyền được định danh điện tử để tham gia các giao dịch điện tử
Để tham gia được hoạt động tố tụng điện tử, chủ thể tham gia phải có định danh điện tử để tham gia như chữ ký số (Nghị quyết số 04/2016/NQ-HĐTP). Tuy nhiên, chi phí để thiết lập và duy trì định danh điện tử trong giai đoạn trước đây đã không khuyến khích người dân, doanh nghiệp có hoặc duy trì nên không có người tham gia hoạt động tố tụng điện tử tại toà án trong một thời gian[7]. Đầu năm 2022, Thủ tướng đã phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia. Theo Đề án, cá nhân công dân sẽ được cấp tài khoản định danh điện tử và sử dụng định danh này trong thủ tục tố tụng tại toà án và các giao dịch khác (Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022).
Thứ tư, quyền riêng tư trên môi trường mạng Internet
Hiện nay, pháp luật Việt Nam đã có quy định bảo vệ quyền riêng tư của tổ chức, cá nhân trên mạng Internet, trong đó không hạn chế quyền riêng tư của trẻ em như nghiêm cấm các hành vi, bao gồm công bố, tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư của trẻ em mà không có sự đồng ý của trẻ em (đối với trẻ từ 7 tuổi trở lên) và của cha, mẹ, người giám hộ của trẻ (Luật An ninh mạng năm 2018, Bộ luật Hình sự năm 2015, Nghị định số 15/2020/NĐ-CP). Tuy nhiên, để thực thi quy định nêu trên, các vấn đề về kỹ thuật, thời gian và trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền đối với bảo đảm quyền riêng tư trên môi trường mạng Internet là yếu tố cần được cải thiện[8].
Thứ năm, quyền được cấp hồ sơ cá nhân điện tử và địa chỉ hộp thư điện tử (email) miễn phí
Luật Giao dịch điện tử năm 2005 quy định về lưu trữ thông điệp dữ liệu đối với hồ sơ điện tử. Nghị quyết số 04/2016/NQ-HĐTP hướng dẫn đối với hồ sơ vụ án trong giao dịch điện tử. Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 đã có kế hoạch cụ thể việc cấp dịch vụ dữ liệu dân cư (bao gồm định danh và xác thực thông tin dân cư) cho cá nhân, tổ chức.
Để người dân, tổ chức có thể tham gia thực hiện giao dịch điện tử, bao gồm thủ tục tố tụng điện tử thì cần thông qua hộp thư điện tử của họ. Hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam cung cấp hạ tầng mạng viễn thông hoặc cung cấp giải pháp kết nối không hỗ trợ địa chỉ hộp thư điện tử (email) miễn phí như trước đây nên phần lớn người dân Việt Nam sử dụng địa chỉ email miễn phí của một số hãng công nghệ lớn trên thế giới, như gmail, hotmail… Để thuận tiện cho người sử dụng, các yêu cầu mở email miễn phí thường rất đơn giản và không có cơ chế xác thực bắt buộc về tính chính danh của người khởi tạo hộp thư. Vấn đề này tạo ra những lo lắng về rủi ro an ninh, an toàn cá nhân cũng như an ninh quốc gia, ảnh hưởng đến tính bảo mật của hoạt động TMĐT và quá trình ODR[9].
Do yêu cầu về định danh điện tử, trong thời gian qua, hệ thống toà án chưa giải quyết vụ án nào theo quy định tại Nghị quyết 04/2016/NQ-HĐTP vì rào cản về chi phí đối với việc cấp định danh điện tử cũng như điều kiện kỹ thuật để người dân liên hệ tới toà án[10]. Như vậy, thủ tục tố tụng tại toà án bằng phương thức điện tử cần phải có những giải pháp để người dân, đặc biệt nhóm dễ bị tổn thương, có thể tiếp cận để bảo đảm quyền tiếp cận công lý của họ và cũng để bảo đảm hoạt động tư pháp của toà án có hiệu lực và hiệu quả.
3.3 Đặc điểm thuận lợi và thách thức của ODR hỗ trợ cho tiếp cận công lý
3.3.1 Thuận lợi
Thứ nhất, ODR bảo đảm tính trung lập trong GQTC. Là một cơ chế hỗ trợ GQTC, ODR có tính trung lập cao và được lập trình, sử dụng theo quy trình thủ tục tố tụng đã có, do đó các bên tham gia GQTC trên hệ thống ODR có thể an tâm khi được trao quyền và nghĩa vụ tương đương. Các đối tượng là nhóm dễ bị tổn thương sẽ không gặp trở ngại khi hai bên đều được đối xử bình đẳng khi tham gia GQTC trực tuyến hoặc bằng phương thức điện tử. Vấn đề bất đồng, xung đột giữa hai bên được giải quyết một cách nhanh chóng, không thiên vị và có tính thống nhất do AI đã lập trình từ các trường hợp trước đó. Tương tự, công nghệ chuỗi khối (blockchain) giúp các bên lưu trữ thông tin, dữ liệu một cách an toàn, không tốn kém chi phí, diện tích, không sợ bị thất lạc. Các khối thông tin được liên kết mã hoá, cho phép người dùng bổ sung liên tục các dữ liệu mới theo thời gian. Không chỉ vụ việc của người dùng được giải quyết nhanh chóng mà hệ thống ODR ngày càng tích lũy nhiều dữ liệu để phân tích, nâng cao hiệu suất GQTC, hướng tới tương lai sử dụng AI và công nghệ để GQTC theo đơn vị tính là phút hay ngày.
Thứ hai, ODR có chức năng phòng ngừa tranh chấp nhờ tận dụng được đặc tính của công nghệ. Với sự hỗ trợ mang tính nhanh chóng và tự động, các tranh chấp có tính chất đơn giản, giá trị nhỏ và số lượng lớn sẽ rất phù hợp với ODR. Điều này giúp cho cơ quan GQTC hay nhà cung cấp dịch vụ trực tuyến tiết kiệm được thời gian, công sức cũng như đẩy nhanh tiến độ giải quyết. Bên cạnh đó, đặc tính dễ thu âm, lưu trữ thông tin như tin nhắn, cuộc hội thoại… của công nghệ cũng khiến các bên có xu hướng cẩn trọng hơn trong quá trình tương tác, phản hồi qua hệ thống; qua đó giúp kiểm soát mâu thuẫn và giảm thiểu rủi ro phát triển thành tranh chấp kiện tụng[11].
Thứ ba, ODR giúp nhóm dễ bị tổn thương tham gia quy trình GQTC một cách chủ động và dễ dàng hơn. Với đặc trưng chi phí tiếp cận thấp và kết nối từ xa, hệ thống ODR giúp các đối tượng là nhóm dễ bị tổn thương, đặc biệt là nhóm người khuyết tật không tiện đi lại, an tâm và tự tin hơn khi thực hiện quyền tố tụng của mình, không còn e ngại vì khoảng cách địa lý hay tiền bạc. Ngoài ra, ODR còn giúp bảo mật thông tin các đương sự tốt hơn khi tham gia quy trình tố tụng bởi họ chỉ cần thực hiện việc nộp đơn, nhận đơn, đọc tài liệu qua thiết bị điện tử thay vì phải tự mình đến cơ quan tố tụng làm thủ tục hay nhận thư chuyển phát từ bưu điện.
3.3.2 Khó khăn
Bên cạnh những ưu điểm vượt trội nêu trên, vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro và khó khăn khi triển khai ứng dụng các công nghệ này để thực hiện ODR.
Khó khăn đầu tiên là chất lượng đường truyền Internet và hiệu năng của các thiết bị điện tử. Đây vốn là công cụ chính để người dùng sử dụng công nghệ như sàn TMĐT, hệ thống quản lý hồ sơ vụ việc… Tuy nhiên, công nghệ chuỗi khối (blockchain) là công nghệ tạo ra cơ sở dữ liệu lưu trữ thông tin trong các khối thông tin được liên kết với nhau bằng mã hóa, tưởng như được thiết kế riêng biệt cho các hệ thống điện tử phục vụ cộng đồng, lại chưa phù hợp với máy tính có đường truyền Internet hay tốc độ xử lý kém[12]. Trở ngại này dễ bắt gặp ở những vùng sâu vùng xa có dân tộc thiểu số hay với người nghèo, những người khó chi trả các khoản cước phí 3G hoặc 4G hay thậm chí mua máy tính[13].
Tiếp theo, việc đưa thông tin và lưu trữ dữ liệu trên những hệ thống máy chủ vẫn tiềm tàng nguy cơ bị rò rỉ, đánh cắp thông tin. Trong một khảo sát của Judicial Integrity Network ASEAN (JIN ASEAN) đối với các thẩm phán khu vực ASEAN về vấn đề bảo vệ dữ liệu cá nhân, 41% thẩm phán cho rằng các nhà cung cấp công nghệ tư nhân có thể tiếp cận dữ liệu toà án, khoảng 22% không biết họ có được tiếp cận hay không và 35% cho rằng họ không thể tiếp cận các nội dung hồ sơ tòa án khi thực hiện hỗ trợ kỹ thuật[14]. Nếu các bên, đặc biệt là nhóm dễ bị tổn thương, bị phát tán những thông tin mật liên quan đến cuộc sống cá nhân hay bí mật kinh doanh của pháp nhân thì sẽ gây ra hậu quả rất lớn. Các doanhnghiệp cung cấp dịch vụ ODR như trung tâm hòa giải, trọng tài hay bản thân các sàn TMĐT khi xây dựng hệ thống ODR cần bảo đảm vấn đề này.
Trở ngại cuối cùng là việc bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương khỏi tội phạm công nghệ cao hay tội phạm lừa đảo, trục lợi. Nhóm dễ bị tổn thương là đối tượng rất dễ bị tội phạm nhắm tới do mức độ hiểu biết về công nghệ chưa cao. Tội phạm công nghệ có thể đánh cắp thông tin cá nhân để chiếm đoạt tài sản hoặc đe dọa về tinh thần, vật chất. Ví dụ, hiện nay có rất nhiều hình thức lừa đảo: gọi điện đến mạo danh là cơ quan công an hoặc tòa án đang điều tra và yêu cầu người nghe phải điền thông tin tài khoản ngân hàng; gửi email/tin nhắn lừa người dùng truy cập vào một trang web ảo được thiết kế như trang web của cơ quan chính thống (ngân hàng, tòa án,…)[15]. Trong trường hợp ứng dụng hệ thống ODR, rủi ro tội phạm làm giả trang web để đánh cắp thông tin cá nhân hoàn toàn có thể xảy ra.
Còn tiếp)
*Bài viết được xuất bản trong Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 149 (09/2022)
*Tác giả bài viết:
Chủ tịch Trung tâm hoà giải thương mại quốc tế Việt Nam (VICMC)
Nguyễn Trần Lan Hương
Thành viên Ban Thư ký Chủ tịch Trung tâm hoà giải thương mại quốc tế Việt Nam (VICMC)
Nguyễn Hải Giang
Thành viên Ban Thư ký Chủ tịch Trung tâm hoà giải thương mại quốc tế Việt Nam (VICMC)
Ban Thư ký
[1] Huy, T.A. (2020), “Các vấn đề pháp lý về hợp đồng điện tử trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0 tại Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo “Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và những vấn đề pháp lý đặt ra cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam”.
[2] Kemp, S. (2021), Digital 2021: Global Overview Report — DataReportal – Global Digital Insights, Kepios, We Are Social & Hootsuite.
[3] Tổng cục Thống kê (2018), Điều tra Quốc gia người khuyết tật 2016 (VDS2016), NXB Thống kê, Hà Nội.
[4] Tổng cục Thống kê (2018), Điều tra Quốc gia người khuyết tật 2016 (VDS2016), NXB Thống kê, Hà Nội.
[5] Anh, L. (2020), “Chuyển đổi số ở vùng sâu: sẽ có smartphone giá 600-700 nghìn đồng”, https://vneconomy.vn/chuyen-doi-so-o-vung-sau-se-co-smartphone-gia-600-700-nghin-dong.htm, truy cập ngày 03/11/2021.
[6] Cương, N.V. (2020), “Thực trạng pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân ở Việt Nam hiện nay và hướng hoàn thiện”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 15, tr. 36-43.
[7] Quang, N.H. (2020), Báo cáo Những thực tiễn tốt về thực hiện thủ tục hành chính tư pháp nhằm tăng cường tính liêm chính của Toà án, UNDP & TANDTC.
[8] Dung, T.T.T. (2019), “Quyền riêng tư ngày càng khó giữ”, Tạp chí Kinh tế Sài Gòn Online, https://thesaigontimes.vn/quyen-rieng-tu-ngay-cang-kho-giu/, truy cập ngày 04/04/2022.
[9] Sơn, P.X. & Huy, T.A. (2021), “Bảo đảm quyền con người trên không gian mạng”, Báo Quản lý Nhà nước, https://www.quanlynhanuoc.vn/2021/10/21/bao-dam-quyen-con-nguoi-tren-khong-gian-mang/, truy cập ngày 05/4/2022.
[10] Quang, N.H. (2020), Báo cáo Những thực tiễn tốt về thực hiện thủ tục hành chính tư pháp nhằm tăng cường tính liêm chính của Toà án, UNDP & TANDTC.
[11] Larson, D.A. & Mickelson, P.G. (2009), “Technology mediated dispute resolution can improve the registry of interpreters for the deaf ethical practices system: the deaf community is well prepared and can lead by example”, Cardozo Journal of Conflict Resolution, Vol. 10, pp. 140-41.
[12] Huy, T.A. (2020), “Các vấn đề pháp lý về hợp đồng điện tử trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0 tại Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo “Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và những vấn đề pháp lý đặt ra cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam”.
[13] Anh, L. (2020), “Chuyển đổi số ở vùng sâu: sẽ có smartphone giá 600-700 nghìn đồng”, https://vneconomy.vn/chuyen-doi-so-o-vung-sau-se-co-smartphone-gia-600-700-nghin-dong.htm, truy cập ngày 03/11/2021.
[14] JIN Asean & UNDP (2021), Emerging Technologies and Judicial Integrity in ASEAN, https://www.undp.org/publications/emerging-technologies-and-judicial-integrity-asean, truy cập ngày 15/03/2022.
[15] Quân, H. (2021), “Gia tăng các thủ đoạn lừa đảo trực tuyến trong mùa dịch”, https://cand.com.vn/Phap-luat/gia-tang-cac-thu-doan-lua-dao-truc-tuyen-trong-mua-dich-i626968/, truy cập ngày 05/04/2022.

































