Bên cạnh hòa giải và trọng tài trực tuyến, tòa án điện tử đã được nhiều nước trên thế giới (Úc, Canada, Hàn Quốc, Trung Quốc, Pháp, Nga, Singapore…) chú trọng xây dựng và ứng dụng để tăng cường hiệu quả của nền tư pháp. Để xây dựng tòa án điện tử, quy trình tố tụng và hoạt động của tòa án phải được số hóa thông qua các nền tảng kỹ thuật số. Tòa án điện tử không chỉ cho phép tiến hành các hoạt động tố tụng trực tuyến, dịch vụ tư pháp Nhà nước, quản lý hồ sơ, kết nối đến dữ liệu các nền tảng số quốc gia mà còn hỗ trợ công việc của các thẩm phán, cán bộ tòa án.
Việc số hóa hồ sơ cần được thực hiện một cách toàn diện và theo quy trình. Từ khâu nộp đơn khởi kiện trực tuyến, hệ thống máy chủ tự động tiếp nhận, đánh mã số và sẵn sàng để cán bộ chuyên trách truy cập. Thẩm phán và thư ký tòa án có thể gửi tài liệu tố tụng (thông báo lịch xét xử, giấy triệu tập, phán quyết,…) đến các bên. Đối với công tác quản trị toà án, việc tiếp nhận, sắp xếp và lưu trữ hồ sơ điện tử giúp giảm bớt sức người, chi phí văn phòng phẩm cũng như hạn chế nguy cơ thất lạc. Đối với người dân, số hóa hệ thống quản lý hồ sơ giúp họ được tiếp cận hồ sơ vụ án một cách nhanh chóng và dễ dàng hơn[1]. Các bên cũng có thể gửi tài liệu, chứng cứ bổ sung, củng cố hồ sơ hay theo dõi tiến độ xử lý hồ sơ. Một hệ thống hồ sơ được số hóa toàn diện sẽ tạo thuận lợi cho các thẩm phán, cán bộ tòa án, cơ quan tham gia tố tụng khác (như Viện kiểm sát ở Việt Nam) và người dân theo dõi được quá trình lập, xử lý hồ sơ và nghiên cứu tài liệu ở bất kỳ đâu và bất kỳ lúc nào. Kết thúc quá trình xét xử, bản án hay một số thông tin nhất định sẽ được công khai. Như vậy, người dân có thêm niềm tin vào hiệu quả làm việc và sự minh bạch của hoạt động tư pháp[2].
Tòa án điện tử còn có thể phát triển các thuật toán và AI để ứng dụng các tính năng như tự động phân công thẩm phán; phân loại, sắp xếp hồ sơ, gửi thông báo và sắp xếp lịch xét xử, liên kết đến các án lệ, văn bản quy định pháp luật có liên quan, giải quyết các vấn đề về mặt thủ tục… Hiện nay, nhiều nước phát triển như Hàn Quốc, Trung Quốc, Australia, Ấn Độ, Singapore… đang trong giai đoạn tiến tới xây dựng tòa án số hay tòa án thông minh[3].
Ở các nước phát triển (Hoa Kỳ, Úc, Canada hay Anh), toà án có nhiều hình thức hỗ trợ các bên trong những vụ án gia đình bằng việc tạo ra những trung tâm tự hỗ trợ và các thủ tục được thực hiện trực tuyến. Những nỗ lực này đã giúp cho khoảng 70% vụ án mà các bên tự giải quyết vấn đề của mình mà không nhờ cậy tới các dịch vụ luật sư[4]. Tuy nhiên, trong các hệ thống giao dịch giữa toà án và người dân ở nhiều quốc gia, luật sư thường được tạo điều kiện để tiếp cận các cơ chế giao tiếp điện tử với toà án để bảo vệ quyền lợi cho khách hàng của mình.
Toà án Nhân dân Tối cao Việt Nam (TANDTC) đã đặt ra mục tiêu hoàn thành việc xây dựng tòa án điện tử vào năm 2025[5]. Hiện tại, TANDTC đã công bố hơn 930.000 bản án, quyết định của toà án và 52 án lệ (TANDTC, 2022). Phần mềm quản lý đơn đề nghị giám đốc thẩm/tái thẩm đã giúp TANDTC hình thành một hệ thống cơ sở dữ liệu thống nhất về công tác giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm/tái thẩm. Ngoài ra, một số toà án đã áp dụng phần mềm trong công tác phân công thẩm phán theo phương thức phân công tự động. Nhờ có công nghệ thông tin, các thẩm phán và lãnh đạo tòa án dễ dàng theo dõi được khối lượng công việc và quá trình giải quyết vụ án[6]. TANDTC cũng đang phát triển phần mềm trợ lý ảo cho các thẩm phán để hỗ trợ cho công tác giải quyết vụ án[7]. Trước khi có những áp dụng về công nghệ nêu trên, từ năm 2016, TANDTC đã thí điểm áp dụng tại bốn toà án theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 04/2016/NQ-HĐTP ngày 30/12/2016 hướng dẫn về nộp đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ và cấp tống đạt, thông báo, văn bản tố tụng bằng phương tiện điện tử, bao gồm TAND Cấp cao tại Hà Nội, TAND tỉnh Quảng Ninh, TAND TP. Hà Nội, TAND TP. Hải Phòng[8].
Cuối năm 2021, Quốc hội cho phép hệ thống TAND được tổ chức phiên tòa trực tuyến để xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự, dân sự, hành chính có tình tiết, tính chất đơn giản; tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án rõ ràng theo Nghị quyết số 33/2021/QH15 ngày 12/11/2021 về tổ chức phiên tòa trực tuyến (có hiệu lực từ ngày 01/01/2022). Các phiên tòa sẽ được tổ chức tại phòng xử án thực tế và sử dụng các thiết bị điện tử kết nối với nhau thông qua môi trường Internet. Phiên tòa trực tuyến phải tuân thủ các quy định của pháp luật về tố tụng và phải bảo đảm an ninh, an toàn thông tin trên môi trường Internet. Phiên toà trực tuyến được yêu cầu phải bảo đảm các điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật; bảo đảm sự tôn nghiêm. Hiện tại, một số toà án đang tiến hành thí điểm và triển khai xét xử trực tuyến như Bình Dương[9], thành phố Hồ Chí Minh[10], Bắc Giang, Hà Nội và Hải Phòng[11].
3. Tiếp cận công lý trong các cơ chế giải quyết tranh chấp trực tuyến
3.1 Chủ thể nào cần tiếp cận công lý?
Một nội dung thuộc Mục tiêu phát triển bền vững số 16 của Liên Hợp Quốc là thúc đẩy pháp quyền ở cấp quốc gia và quốc tế và đảm bảo quyền tiếp cận công lý bình đẳng cho tất cả mọi người[12]. Tiếp cận công lý hay quyền tiếp cận công lý thường được hiểu theo hai góc độ. Góc độ thứ nhất và cũng là quan điểm truyền thống cho rằng tiếp cận công lý là quyền được xét xử công bằng. Nếu chỉ hiểu theo tầng nghĩa này, tiếp cận công lý phụ thuộc phần lớn vào hoạt động xét xử của tòa án, các chủ thể tham gia tố tụng đều được tiếp cận quá trình tố tụng, như hoạt động bào chữa, trợ giúp pháp lý, thủ tục kháng cáo… Ở góc độ thứ hai, tiếp cận công lý là quyền tìm kiếm đền bù hoặc khắc phục hợp lý cho những đối xử bất công hay thiệt hại mà một chủ thể phải gánh chịu do những chủ thể khác gây ra, đặc biệt là chủ thể thuộc nhóm xã hội dễ bị tổn thương (người nghèo, người dân tộc thiểu số, người khuyết tật…)[13].
Xét về phạm vi, công lý không chỉ có thể tìm kiếm và tiếp cận từ các thiết chế tư pháp Nhà nước mà còn từ các thiết chế giải quyết tranh chấp ngoài Nhà nước. Trách nhiệm bảo đảm tiếp cận công lý thuộc về cơ quan lập pháp, cơ quan tư pháp Nhà nước và cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài Nhà nước (gồm trọng tài, hòa giải), hệ thống cơ quan giám sát (Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn…)[14].
Xét về mục đích, tiếp cận công lý không chỉ xoay quanh vấn đề thủ tục tố tụng (quyền được tham gia quy trình tố tụng) mà còn hướng tới kết quả – được đền bù, khắc phục đối với những bất công, thiệt hại phải gánh chịu như đã phân tích ở trên. Công lý không thể đạt được nếu quá trình tố tụng không mang lại kết quả đáng kể cho người có quyền lợi bị ảnh hưởng. Điều này đòi hỏi quy trình giải quyết phải bảo đảm tính công minh và tuân thủ quy định pháp luật[15].
Xét về đối tượng hưởng quyền tiếp cận công lý, tiếp cận công lý chú trọng vào nhóm dễ bị tổn thương trong xã hội như trẻ em là nạn nhân của bạo lực gia đình, người nghèo, người dân tộc thiểu số, người khuyết tật, người mắc bệnh hiểm nghèo, người phạm tội (tù nhân), người không quốc tịch, người tị nạn, LGBT… Thông thường, đây là đối tượng cần được bảo vệ, chăm sóc, hỗ trợ đặc biệt, hoặc có nhiều nguy cơ bị phân biệt đối xử, kỳ thị… Từ chỗ “bình đẳng” – tất cả mọi người đều được đối xử giống nhau, có quyền và nghĩa vụ ngang nhau bất kể sự khác biệt giữa họ – đến chỗ “công bằng” – đối xử khác nhau theo nhu cầu, hoàn cảnh của nhóm cá nhân để đảm bảo ai cũng có thể tiếp cận với cơ hội. Nhóm dễ bị tổn thương có thể chưa có cơ hội bình đẳng với phần còn lại của xã hội. Họ cần được hỗ trợ nguồn lực theo nhu cầu để có thể đạt được trạng thái hay vị trí bình đẳng như các chủ thể khác.
Ngoài ra, tiếp cận công lý được mở rộng cho không chỉ cá nhân mà còn cả pháp nhân, như các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Chủ thể đặc biệt này gần như xuất hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, văn hóa, xã hội… Do đó, pháp nhân cũng là đối tượng có thể chịu những bất công, thiệt hại. Trong lĩnh vực kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ có thể là bên yếu thế trong quan hệ đối tác với doanh nghiệp lớn hơn.
Tóm lại, quyền tiếp cận công lý là quyền của người dân, trong đó có nhóm dễ bị tổn thương, được tìm kiếm và đạt được sự đền bù hoặc khắc phục thông qua các cơ quan tư pháp chính thức và cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài toà án, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người[16].
(Còn tiếp)
*Bài viết được xuất bản trong Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 149 (09/2022)
*Tác giả bài viết:
Chủ tịch Trung tâm hoà giải thương mại quốc tế Việt Nam (VICMC)
Nguyễn Trần Lan Hương
Thành viên Ban Thư ký Chủ tịch Trung tâm hoà giải thương mại quốc tế Việt Nam (VICMC)
Nguyễn Hải Giang
Thành viên Ban Thư ký Chủ tịch Trung tâm hoà giải thương mại quốc tế Việt Nam (VICMC)
Ban Thư ký
[1] Beynel, J.F. & Casass, D. (2018), “Chantiers de la justice-Transformation numérique, Min.justice, janv”.
[2] Quang, N.H. & Lượng, T.D. (2020), Báo cáo Phân tích so sánh cơ chế đảm bảo liêm chính tư pháp để thúc đẩy kinh doanh tại một số nước và bài học cho Việt Nam.
[3] Bình, N.H. (2022), “Xây dựng Toà án điện tử – một nhiệm vụ quan trọng của chiến lược cải cách tư pháp”, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/xay-dung-toa-an-dien-tu-mot-nhiem-vu-quan-trong-cua-chien-luoc-cai-cach-tu-phap5767.html, truy cập ngày 04/04/2022.
[4] The Hague Institute for Innovation of Law (2016), “ODR and the Courts: the promise of 100% access to justice – online dispute resolution 2016”, Trend Report IV.
[5] Bình, N.H. (2022), “Xây dựng Toà án điện tử – một nhiệm vụ quan trọng của chiến lược cải cách tư pháp”, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/xay-dung-toa-an-dien-tu-mot-nhiem-vu-quan-trong-cua-chien-luoc-cai-cach-tu-phap5767.html, truy cập ngày 04/04/2022.
[6] Bình, N.H. (2022), Sđd, truy cập ngày 04/04/2022.
[7] Linh, Q. (2022), “Toà án nhân dân tối cao sắp tập huấn phần mềm trợ lý ảo cho Thẩm phán”, https://plo.vn/phap-luat/toa-an-nhan-dan-toi-cao-sap-tap-huan-phan-mem-tro-ly-ao-cho-tham-phan-1052020.html, truy cập ngày 04/04/2022.
[8] Quang, N.H. (2020), Báo cáo Những thực tiễn tốt về thực hiện thủ tục hành chính tư pháp nhằm tăng cường tính liêm chính của Toà án, UNDP & TANDTC.
[9] Yến, H. (2022), “Phiên tòa trực tuyến rút kinh nghiệm của chánh án thị xã Tân Uyên”, https://plo.vn/phap-luat/binh-duong-phien-toa-truc-tuyen-rut-kinh-nghiem-cua-chanh-an-thi-xa-tan-uyen-1050141.html, truy cập ngày 05/04/2022.
[10] Phương, T. (2022), “Lần đầu tiên TP.HCM mở phiên tòa trực tuyến”, https://vietnamnet.vn/vn/phap-luat/lan-dau-tien-tp-hcm-mo-phien-toa-truc-tuyen-824681.html, truy cập ngày 05/04/2022.
[11] Việt, Đ. & Hùng, M. (2022), “Phiên tòa xét xử trực tuyến: bước đột phá trong cải cách tư pháp”, https://congly.vn/phien-toa-xet-xu-truc-tuyen-buoc-dot-pha-trong-cai-cach-tu-phap-201971.html, truy cập ngày 05/04/2022.
[12] United Nations (2015), “Sustainable Development Goal 16”. https://www.un.org/ruleoflaw/sdg-16/, truy cập ngày 03/11/2021.
[13] Anh, N.T.Q., Giao, V.C & Thắng, M.V. (2019), Trí tuệ nhân tạo với pháp luật và quyền con người, NXB Tư pháp, Hà Nội.
[14] UNDP (2004), “The access to justice practice note” https://www.undp.org/sites/g/files/zskgke326/files/publications/Justice_PN_En.pdf, truy cập ngày 16/03/2022.
[15] Susskind, R. (2019), Online Courts and the Future of Justice, Oxford University Press, United Kingdom.
[16] UNDP (2004), Sđd; IDLO (2020), “Goal 16: peace, justice and strong institutions” , https://www.idlo.int/sustainable-development-goals/goal-16-peace-justice-and-strong-institutions, truy cập ngày 03/11/2021.

































